Những vấn đề đặt ra đối với việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015

17/01/2017 06:05

Quan điểm của VKSND tối cao là chỉ tập trung sửa đổi những quy định có sai sót rõ ràng về nội dung, về kỹ thuật, khắc phục sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các điều luật, kết hợp xử lý những quy định chưa hợp lý, khó áp dụng trong thực tế...

1.Vì sao phải sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015

Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 có nhiều nội dung đổi mới, có tính đột phá nhằm thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, khắc phục những vướng mắc, bất cập trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm thời gian qua, đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước; trong đó, điểm đổi mới, nổi bật mang tính đột phá là bổ sung chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và cụ thể hóa tối đa các dấu hiệu định tội, định khung mang tính chất định tính (về hậu quả, thu lợi bất chính, số lượng…) trong cấu thành của hầu hết các tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về kinh tế, môi trường, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Tuy nhiên, đây là những vấn đề lớn và rất phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu, đánh giá toàn diện, thấu đáo để có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn đầy đủ cho việc sửa đổi, bổ sung những điều khoản cụ thể. Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 109/2015/QH13 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật này (Nghị quyết số 109), các cơ quan hữu quan đã phát hiện và phản ánh sai sót kỹ thuật, một số quy định chưa hợp lý, khó áp dụng trong Bộ luật. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Ủy ban Tư pháp của Quốc hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan hữu quan khác tiến hành rà soát tổng thể các quy định của Bộ luật để khắc phục kịp thời những sai sót, bảo đảm áp dụng thống nhất BLHS trong thực tiễn. Ngày 29/6/2016, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của BLHS năm 2015 cùng với 03 luật khác có liên quan (1) (Nghị quyết số 144); đồng thời, bổ sung dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016.

Trong quá trình xây dựng dự án Luật, có 02 cách tiếp cận khác nhau về quan điểm sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015.

Cách tiếp cận thứ nhất cho rằng: (1) Chỉ sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS năm 2015 có lỗi kỹ thuật đã được phát hiện và những nội dung rõ ràng là chưa hợp lý hoặc có thể khó áp dụng trên thực tế liên quan đến một số chính sách cụ thể được thể hiện trong một số điều luật của BLHS năm 2015 nhằm bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, logic; (2) Không làm thay đổi những chính sách lớn của BLHS đã được Quốc hội thông qua và không đặt ra vấn đề mới dẫn đến việc phải sửa đổi, bổ sung các luật khác đang được lùi hiệu lực thi hành cùng BLHS năm 2015(2); (3) Việc sửa đổi, bổ sung phải tiếp tục góp phần đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Cách tiếp cận thứ hai cho rằng, cần khắc phục triệt để những điểm chưa hợp lý của BLHS năm 2015, thậm chí là có thể sửa đổi căn bản, toàn diện Bộ luật, trong đó giải quyết một cách đồng bộ các vấn đề liên quan đến việc lượng hóa các tình tiết mang tính định tính trong BLHS cũng như xử lý một cách cơ bản các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại…

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao là chỉ tập trung sửa đổi những quy định có sai sót rõ ràng về nội dung, về kỹ thuật, khắc phục sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các điều luật, kết hợp xử lý những quy định chưa hợp lý, khó áp dụng trong thực tế mà được sự đồng thuận, thống nhất cao. Việc sửa đổi phải bảo đảm tính đồng bộ, tương thích với các đạo luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật. Đối với những vấn đề mới thuộc chính sách hình sự đã được Quốc hội khóa XIII thảo luận kỹ và thông qua, chưa được triển khai thực hiện, chưa có cơ sở thực tiễn để đánh giá, kiểm nghiệm thì không sửa.

Dự thảo Luật do Chính phủ trình Quốc hội khóa XIV (kỳ họp thứ 2) cho ý kiến được thiết kế trên cơ sở cách tiếp cận thứ nhất. Theo đó, dự thảo Luật đưa ra sửa đổi, bổ sung 141 điều của Bộ luật, gồm 18 điều thuộc Phần những quy định chung và 123 điều thuộc Phần các tội phạm, trong đó có 38 điều sửa đổi về kỹ thuật, 102 điều sửa đổi về nội dung quy định trong điều luật và bãi bỏ 01 điều (3).

2.Những nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản của dự thảo Luật

a) Dự thảo Luật đã điều chỉnh mức định lượng tại các khoản của 70 điều luật của BLHS năm 2015; trong đó có 52 điều liên quan đến mức định lượng về tỷ lệ thương tích, tổn hại cho sức khỏe và 18 điều luật liên quan đến các mức định lượng khác (số lượng, khối lượng, thể tích) thuộc cấu thành một số tội phạm về kinh tế, môi trường, ma túy, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và một số tội khác.

b) Điều chỉnh mức hình phạt trong các khung hình phạt của 10 điều luật (4) liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm an toàn giao thông và trật tự công cộng nhằm bảo đảm sự phân hóa rõ, hợp lý chính sách xử lý đối với từng trường hợp phạm tội, nhất là giữa trường hợp phạm tội đã gây ra hậu quả với trường hợp phạm tội có khả năng gây ra hậu quả (5).

c) Sửa đổi, bổ sung liên quan đến cấu thành của một số tội phạm quy định tại 46 điều luật của BLHS năm 2015 (6) để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm như bổ sung hành vi “cướp phá tài sản” vào cấu thành tội bạo loạn (Điều 112) để xử lý đối với hành vi phạm tội này mà theo BLHS năm 1999 thì đây là hành vi cấu thành tội “Hoạt động phỉ”.

d) Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều khoản thuộc phần những quy định chung của BLHS năm 2015 để bảo đảm sự nhất quán trong chính sách xử lý; bảo đảm tính bao quát, toàn diện và phù hợp hơn với thực tiễn như sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015 theo hướng kế thừa quan điểm của BLHS năm 1999 là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng chỉ giới hạn trong 28 tội danh cụ thể tại khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015 nhằm bảo đảm tính nhất quán trong chủ trương nhân đạo hóa chính sách hình sự đối với người này.

đ) Sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLHS năm 2015 liên quan đến pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tạo thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế như phân loại tội phạm, đồng phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội vào một số điều của BLHS năm 2015(7).

e) Dự thảo Luật bỏ tội danh cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 292 BLHS năm 2015), trong khi đó thực chất Điều 292 BLHS năm 2015 là cấu thành tội “kinh doanh trái phép” (BLHS năm 1999 đã bỏ) trên môi trường mạng. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, việc BLHS năm 2015 quy định Điều 292 là cần thiết nhằm góp phần tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh trên môi trường mạng; góp phần tăng cường sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này. Song, cần xem xét, chỉnh sửa điều luật theo hướng thu hẹp phạm vi của tội phạm này để bảo đảm tính chặt chẽ, phù hợp hơn.

g) Sửa đổi, bổ sung quy định về viện dẫn, các từ ngữ dùng trong điều luật cũng như các sửa đổi khác về kỹ thuật tại 38 điều khoản của BLHS năm 2015(8) nhằm bảo đảm tính chính xác, logic, rõ ràng, tạo thuận lợi cho việc áp dụng Bộ luật trong thực tiễn.

Quá trình xây dựng dự thảo Luật, VKSND tối cao đã ban hành 06 văn bản góp ý trong dự thảo Luật. Trong khuôn khổ của bài viết này chỉ tập trung vào 03 nội dung quan trọng sau đây:

Thứ nhất, về việc bổ sung chất ma túy, cây có chứa chất ma túy mới xuất hiện vào BLHS năm 2015 (tại các điều: 249, 250, 251 và 252 của BLHS năm 2015)

Sau khi BLHS năm 2015 mới được thông qua thì trên thực tế ở Việt Nam lại xuất hiện những loại cây khác có chứa chất ma túy như cỏ Mỹ, lá khat, cỏ Nam Phi…, vì vậy, cần có quy định bổ sung trong BLHS. Tuy nhiên, việc bổ sung nội dung này như thế nào cũng còn có ý kiến khác nhau.

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, để góp phần đấu tranh chống tội phạm về ma túy có hiệu quả thì cần bổ sung chất XLR-11 (được tẩm ướp trong cỏ Mỹ) và lá cây khat – một loại lá đã xuất hiện ở nước ta, đồng thời bổ sung quy định mang tính bao quát là “cây khác có chứa chất ma túy” để tạo điều kiện linh hoạt, thuận lợi trong việc xử lý tội phạm khi phát hiện một loại cây mới có chứa chất ma túy.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, trước mắt chỉ nên bổ sung những chất ma túy mà chúng ta đã biết rõ tên, nguồn gốc. Đó là chất XLR-11 (được tẩm ướp trong cỏ Mỹ) và lá cây khat. Còn những cây khác có chứa chất ma túy mà chúng ta chưa biết được thì chưa nên bổ sung vào BLHS. Trên tinh thần đó, không nên có quy định mang tính bao quát “cây khác có chứa chất ma túy” trong các điều luật của BLHS quy định các tội phạm về ma túy.

Quan điểm của VKSND tối cao, để bảo đảm tính ổn định của BLHS và đáp ứng yêu cầu xử lý kịp thời các tội phạm về ma túy trong tình hình mới, đề nghị bổ sung cụm từ “cây khác có chứa chất ma túy theo Danh mục các chất ma túy do Chính phủ quy định” sau cụm từ “Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây khat, lá cây coca…” tại khoản của các điều từ Điều 249 đến Điều 252. Việc bổ sung quy định này cũng thống nhất với quy định “các chất ma túy khác” tại các điều quy định về các tội: Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (từ Điều 248 đến Điều 252), quy định “các loại cây khác có chứa chất ma túy” tại Điều 247 về tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy. Dự thảo Luật đã thể hiện theo quan điểm này.

Thứ hai, về quy định liên quan đến việc xác định hàm lượng các chất ma túy để quy ra khối lượng hoặc thể tích làm cơ sở xử lý hình sự (tại các điều: 248, 249, 250, 251 và 252 của BLHS năm 2015)

Dự thảo Luật quy định rõ cần phải xác định hàm lượng chất ma túy thu giữ được để quy ra khối lượng hoặc thể tích chất ma túy làm cơ sở cho việc xử lý hình sự nếu thuộc một trong 05 trường hợp sau: (1) Phạm tội về ma túy quy định tại khoản 4 các điều từ Điều 248 đến Điều 252 của BLHS năm 2015 (có mức phạt đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình); (2) Chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch; (3) Chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng; (4) Xái thuốc phiện; (5) Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần. Việc bổ sung quy định này là sự ghi nhận trong BLHS từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy hiện nay, nhằm khắc phục cách hiểu khác nhau, không thống nhất được về vấn đề xác định hàm lượng chất ma túy giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

Quan điểm của VKSND tối cao đề nghị quy định rõ trong BLHS là chỉ tính hàm lượng để xác định khối lượng hoặc thể tích chất ma túy đối với 04 trường hợp: (1) Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch; (2) Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng; (3) Xái thuốc phiện; và (4) Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần. Đây là các trường hợp được quy định tại Thông tư liên tịch số 08 ngày 14/11/2015 của liên ngành Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã được áp dụng, kiểm nghiệm qua thực tiễn công tác đấu tranh, xử lý tội phạm về ma túy trong thời gian qua.

Riêng tại các điều luật nêu trên của dự thảo Luật có bổ sung khoản 6 quy định: Phạm tội thuộc khoản 4 các điều này (có hình phạt cao nhất là phạt tù đến 20 năm, chung thân hoặc tử hình) thì phải xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy là không đúng, không phù hợp với thực tiễn giải quyết án, xử lý tội phạm về ma túy, bởi các lý do sau đây:

Một là, về mặt chủ quan, người sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy chỉ nhận thức về loại, khối lượng các chất ma túy khi thực hiện hành vi phạm tội mà không quan tâm đến hàm lượng là bao nhiêu.

Hai là, thực tiễn việc giám định chất ma túy gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong nhiều trường hợp, không thể xác định được hàm lượng chất ma túy do thiếu phương tiện và mẫu chất ma túy để giám định.

Ba là, trên thực tế, nhiều vụ án ma túy lớn, phức tạp phải qua điều tra, truy xét mới phát hiện được tội phạm, nhưng không thu giữ được vật chứng là chất ma túy, nếu phải trưng cầu giám định để xác định hàm lượng chất ma túy thì không giải quyết được vụ án, không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy đang diễn biến hết sức phức tạp.

Bốn là, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài cho thấy chưa có pháp luật nước nào quy định chất ma túy phải tính theo hàm lượng, BLHS Trung Quốc hiện hành quy định rõ số lượng ma túy tính theo số lượng thực tế buôn lậu, mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép khi kiểm tra, chứ không tính theo hàm lượng.

Thứ ba, về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật (Điều 377 BLHS năm 2015)

Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, quy định trường hợp phạm tội tại điểm đ khoản 1 Điều 377 BLHS năm 2015 về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật”(9) là quá rộng, không phù hợp thực tiễn, chưa thể hiện rõ ý thức chủ quan của người phạm tội và tính nguy hiểm của hành vi để xử lý hình sự, bởi đây là vi phạm về chế độ, trách nhiệm công vụ, nhiều trường hợp còn do hoàn cảnh khách quan mà chưa kịp thời ra quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam đối với người bị tạm giữ, bị can nhưng những đối tượng này đều thuộc trường hợp có căn cứ và cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam. Do vậy, VKSND tối cao đề nghị bổ sung quy định rõ hành vi phạm tội phải là “Cố ý” và bổ sung điều kiện “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” thì mới bị xử lý hình sự để bảo đảm quy định chặt chẽ, tránh xử lý quá nặng hoặc tràn lan.

3.Những quy định có lợi cho người phạm tội

Trong khi chờ thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 và có hiệu lực thi hành, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thi hành Nghị quyết số 109 và Nghị quyết số 144 về các quy định có lợi cho người phạm tội trong BLHS năm 2015 và các quy định của BLTTHS năm 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109 quy định rõ những quy định có lợi cho người phạm tội được áp dụng ngay kể từ ngày BLHS năm 2015 được công bố như:

– Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội mà BLHS năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình(10); không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.

– Đối với người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các điều kiện quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 của BLHS năm 2015, thì không thi hành và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân(11).

– Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà BLHS năm 1999 quy định là tội phạm nhưng BLHS năm 2015 không quy định là tội phạm(12).

– Không xử lý về hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm không được quy định tại khoản 2 Điều 12 và các điểm b, c khoản 2 Điều 14 của BLHS năm 2015.

Thứ hai, khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 144 quy định rõ kể từ ngày 01/07/2016: Thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 và điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109(13); tiếp tục áp dụng khoản 2 Điều 1 và các quy định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109. Điều đó có nghĩa là BLHS năm 2015 chỉ lùi hiệu lực thi hành một phần, những quy định có lợi cho người phạm tội trong BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016. Do vậy, trong Công văn số 5003/VKSTC-V14 ngày 02/12/2016, VKSND tối cao yêu cầu VKSND và Viện kiểm sát quân sự các cấp khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự cần lưu ý:

Để bảo đảm đúng nguyên tắc áp dụng pháp luật hình sự, nội dung của Nghị quyết số 109, Nghị quyết số 144 của Quốc hội và khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 thì từ ngày 01/7/2016, khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS năm 1999, nếu có đủ căn cứ để xác định người đó phạm tội thuộc trường hợp áp dụng quy định có lợi của BLHS năm 2015 thì khi ban hành các quyết định, văn bản tố tụng (như cáo trạng, luận tội…) và thực hiện các hoạt động tố tụng (như luận tội, tranh luận tại phiên tòa…) phải phân tích, so sánh, làm rõ các điều khoản tương ứng của 02 Bộ luật (BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015); viện dẫn điều khoản của BLHS năm 1999, Nghị quyết số 109, Nghị quyết số 144 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 và điều khoản có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015 làm căn cứ để quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Chỉ áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015. Các quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có lợi cho người phạm tội so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhưng không phải để thi hành các quy định có lợi của BLHS năm 2015 thì cũng chưa áp dụng./.

Chú thích: (1) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015. 2) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có trên 40 điều viện dẫn các điều khoản của BLHS năm 2015; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự có trên 50 điều viện dẫn các điều khoản của BLHS năm 2015. (3) Điều 292. Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông. (4) Các Điều 134, 260, 261, 267, 268, 272, 273, 278, 295, 307 của BLHS năm 2015. (5) Khoản 4 các Điều 260, 261; khoản 4, khoản 5 các Điều 267, 268, 272, 273, 295 và khoản 5 các Điều 278, 307 của BLHS năm 2015. (6) Các Điều 112, 134, 135, 158, 178, 190, 191, 203, 206, 209, 232, 233, 243, 244, 248, 249, 250, 251, 252, 260, 261, 267, 268, 272, 273, 278, 264, 270, 306, 307, 309, 310, 311, 313, 317, 322, 327, 343, 344, 363, 378, 386, 387, 388, 390 và 410 của BLHS năm 2015. (7) Các Điều 9, 17, 27, 29 và 53 của BLHS năm 2015. (8) Các Điều 19, 81, 93, 169, 175, 177, 178, 186, 188, 189, 200, 201, 210, 211, 219, 225, 226, 234, 238, 239, 241, 245, 246, 254, 325, 338, 346, 350, 353, 354, 355, 358, 359, 369, 370, 377, 389 và 398 của BLHS năm 2015. (9) 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: … đ) Không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn. (10) Điều 133. Tội cướp tài sản; Điều 157. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm; Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy; Điều 231. Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; Điều 316. Tội chống mệnh lệnh; Điều 322. Tội đầu hàng địch – Bộ luật Hình sự năm 1999. (11) Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. (12) Bao gồm 05 tội: Tảo hôn; báo cáo sai trong quản lý kinh tế; vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. (13) Các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, xóa bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích.

Tiến sĩ Trần Công Phàn, Phó Viện trưởng VKSNDTC

Nguồn: TCKS số 3/2017

Yêu cầu đặt cọc để được tham gia bán hàng đa cấp có trái pháp luật?

Tôi muốn tham gia bán hàng đa cấp thì được yêu cầu đặt cọc một khoản tiền và mua một số lượng hàng trước? Tôi muốn hỏi công ty kinh doanh đa cấp làm như vậy có đúng không? việc lợi dụng kinh doanh đa cấp để chiếm đoạt tài sản thì bị xử lý thế nào?

Điểm mới về điều kiện tha tù trước hạn

(Kiemsat.vn) - Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định mới về tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 66) nhằm khuyến khích người chấp hành án phạt tù tích cực học tập, cải tạo để sớm được tái hòa nhập cộng đồng.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang