Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở cấp huyện

08/12/2016 04:41

(kiemsat.vn)
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự là một trình tự tố tụng được quy định tại Điều 232, 233 BLTTHS năm 2003 (Điều 266, 336 BLTTHS năm 2015), theo đó, quy định Viện trưởng VKS cùng cấp, VKS cấp trên trực tiếp có thẩm quyền kháng nghị đối với Toà án đã ra bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

Bản chất của việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án hình sự đó là kháng nghị những phần đề nghị của Viện kiểm sát nêu trong bản luận tội không được Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận hoặc chấp nhận một phần, cũng có thể HĐXX có sai lầm về áp dụng pháp luật, với hậu quả Bản án tuyên không thuyết phục, cũng có thể bản án chưa đúng theo qui định pháp luật, nên buộc Viện kiểm sát phải kháng nghị để xem xét lại bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực. Đây là căn cứ phát sinh trình tự xét xử theo thủ tục phúc thẩm được quy định trong BLTTHS.

Đối với công tác này trong thời gian vừa qua đã được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đặc biệt quan tâm chỉ đạo “Tiếp tục tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự” tại Chỉ thị số 08/CT-VKSTC ngày 6/4/2016; do vậy, có thể thấy công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, được xác định là nhiệm vụ quan trọng, một chỉ tiêu hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị nên các Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà cần xác định tầm quan trọng của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, làm tốt vai trò, vị trí, trách nhiệm đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, bảo đảm việc xét xử của Toà án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, thực hiện tốt công tác kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án, phát hiện vi phạm để ban hành kháng nghị có chất lượng.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát ở cấp huyện, qua thực tiễn công tác, chúng tôi xin nêu một số giải pháp cơ bản để các đơn vị trong toàn Ngành cùng tham khảo:

Thứ nhất, về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành về công tác kháng nghị phúc thẩm

Cùng với việc triển khai thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát, đặc biệt là quyền kháng nghị theo qui định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS năm 2015; Lãnh đạo đơn vị cần thường xuyên chỉ đạo các Kiểm sát viên phải coi trọng, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự. Tiếp tục tăng cường công tác kháng nghị theo yêu cầu của Viện trưởng VKSTC tại Chỉ thị số 08/CT-VKSTC, tích cực chỉ đạo công tác kiểm sát bản án, kịp thời phát hiện những vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử để kháng nghị ngang cấp hoặc đề xuất với Viện kiểm sát cấp trên kịp thời kháng nghị, kiên quyết kháng nghị nếu phát hiện có vi phạm và ban hành kháng nghị có căn cứ đúng pháp luật, đảm bảo chặt chẽ về nội dung, đúng thể thức, đảm bảo thời hạn đúng qui định pháp luật.

Thứ hai, nâng cao chất lượng kiểm sát các hoạt động xét xử và kiểm sát bản án

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà kịp thời phát hiện vi phạm tố tụng trong hoạt động xét xử của HĐXX; sau phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố phải trực tiếp lập Phiếu kiểm sát bản án, nhằm nghiên cứu xem xét đối chiếu giữa kết quả xét hỏi và tranh luận tại phiên toà, cùng với đề nghị trong luận tội với phần nhận định phần quyết định của bản án có phù hợp, đúng không…, nhất là xem xét, đối chiếu nội dung bản án về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và phần trách nhiệm dân sự…, kịp thời phát hiện những vi phạm trong quyết định của bản án, để báo cáo Lãnh đạo Viện xem xét, quyết định việc kháng nghị hay không kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; hoặc đề xuất những biện pháp giải quyết đối với những vi phạm trong bản án nếu không kháng nghị. Thực hiện nghiêm túc việc gửi bản án, báo cáo kết quả xét xử sơ thẩm, cho Phòng 7 VKSND tỉnh. Việc Kiểm sát viên không phát hiện ra vi phạm của Toà án, không báo cáo đề xuất kháng nghị phúc thẩm mà sau đó Viện kiểm sát tỉnh kháng nghị, được Toà cấp phúc thẩm chấp nhận, thì trách nhiệm trước hết thuộc về Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vụ án.

Thứ ba, tăng cường tự học tập, rút kinh nghiệm để nhận diện vi phạm

Trong quá trình thực hành quyền công tố, kểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự cần nghiên cứu kỹ Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, ban hành kèm theo quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng VKSND tối cao để nắm chắc căn cứ kháng nghị, đó là:

Việc “Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án”, cần phải xem xét, đây là trường hợp trong quá trình xét xử vụ án HĐXX cấp sơ thẩm chưa làm rõ hết các tình tiết khách quan trong vụ án dẫn đến bản án tuyên đối với bị cáo thực hiện hành vi không đúng với điều luật của BLHS qui định. Thực tiễn xét xử cho thấy có những sai lầm sau:

Hội đồng xét xử chưa xem xét hết, kỹ các tình tiết nên có thể bản án tuyên bị cáo khác tội danh, chuyển sang tội danh nặng hoặc nhẹ hơn Viện kiểm sát đề nghị, mà việc tuyên bố đó rõ ràng là chưa đúng pháp luật hình sự. Ví dụ như: từ tội danh Buôn lậu chuyển sang tội danh Buôn bán hàng cấm; từ tội danh Vận chuyển tiền giả sang tội danh lưu hành tiền giả ..; đây là việc Toà án cấp sơ thẩm bỏ lọt một hoặc nhiều tình tiết trong chuỗi hành vi phạm tội của bị cáo là căn cứ để Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Ngoài ra, trong thực tiễn có bản án sơ thẩm HĐXX tuyên bố về một số trường hợp như: Bị cáo không phạm tội, bỏ lọt người đồng phạm, bỏ lọt tội đối với bị cáo (bị cáo phạm nhiều tội hoặc phạm tội nhiều lần), những trường hợp này, về lý luận là có. Tuy nhiên nếu có xảy ra một trong số trường hợp nêu trên rõ ràng là có căn cứ, thì lỗi thuộc về Viện kiểm sát và Kiểm sát viên thực hành quyền công tố từ trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố.

Như vậy, nếu Hội đồng xét xử xử khác quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát, tất yếu dẫn đến việc quyết định hình phạt không chính xác. Tuy nhiên, cũng có trường hợp mức hình phạt đối với bị cáo đã tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và nếu có thay đổi tội danh thì cũng không thay đổi mức hình phạt, nhưng như vậy không có nghĩa là Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng, mà việc kết án khác quan điểm của Viện kiểm sát vẫn là căn cứ kháng nghị phúc thẩm.

Kết án người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt cao bằng mức hình phạt như người đã trưởng thành, vấn đề này ít xảy ra; tuy nhiên thực tế vẫn có một số trường hợp trong quá trình xét xử Thẩm phán đồng ý với lời khai và những tình tiết của người có hành vi phạm tội dưới 18 tuổi, nhưng khi kết án không chú ý, không căn cứ theo Điều 74 BLHS năm 2009; Điều 101 BLHS năm 2015, để tính chính xác mức hình phạt áp dụng, do đó, mức án quá cao, không có lợi cho người phạm tội, đây cũng là căn cứ phát sinh quyền kháng nghị của Viện kiểm sát.

Trong các trường hợp nêu trên, thể hiện qua bản án tuyên sẽ là mức án tù giam quá nặng hoặc quá nhẹ hoặc bị cáo đáng được hưởng treo thì lại cho giam, hoặc bị cáo đáng bị mức án phạt tù giam thì lại cho hưởng án treo, những trường hợp này cũng sẽ làm phát sinh căn cứ kháng nghị của Viện kiểm sát.

Căn cứ “Có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự”. Trong việc áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự không đúng dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ đối với người phạm tội bao gồm (1) viện dẫn sai, thiếu, thừa điểm khoản của điều luật quy định đối với tội danh bị Viện kiểm sát truy tố; (2) áp dụng các điểm khoản tình tiết giảm nhẹ hoặc tình tiết tăng nặng đối với bị cáo (hiện nay đang áp dụng theo điều 46,47,48, 49 BLHS năm 2009 và Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số qui định trong phần chung BLHS năm 1999); (3) Khi xét xử vụ án hình sự, HĐXX còn có những vi phạm quyết định các biện pháp tư pháp điều 41,42 BLHS năm 2009 như: Tịch thu xung công vật và tiền bạc, giấy tờ có giá trực tiếp liên quan đến tội phạm; trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự trong vụ án hình sự (Riêng đối với việc bồi thường thiệt hại còn bao gồm cả việc áp dụng điều khoản của Bộ luật dân sự và các quy định khác không đúng cũng là căn cứ để kháng nghị phúc thẩm); vấn đề án phí; trả vật tiền giấy tờ khác cho người tham gia tố tụng trong trường hợp không liên quan đến tội phạm, việc tịch thu tiêu hủy vật chứng không đúng…

Những vi phạm nêu ở trên trong bản án, phản ánh việc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự nói riêng, pháp luật nói chung tới mức bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm phải không đúng hoặc sai khi áp dụng, được nêu trong bản án làm thay đổi đáng kể tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội như: Mức án quá nặng hay quá nhẹ, hay đối với bồi thường thiệt hại, tịch thu vật, tiền hoặc giấy tờ có giá, tiêu hủy vật chứng… không có căn cứ, sai qui định pháp luật.

Căn cứ “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng”.

Trong thực tế xét xử do sơ xuất có trường hợp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định, không có 1 hội thẩm là giáo viên hoặc 1 cán bộ Đoàn thanh niên; ở đây do thiếu chú ý của Thẩm phán nên sai sót; còn các trường hợp khác như trong HĐXX là người họ hàng thân thích với nhau, thành phần HĐXX không đủ như 1 Thẩm phán, 2 Hội thẩm… hiện nay thường không có vi phạm (Tuy nhiên nếu có vi phạm này sảy ra, trách nhiệm thuộc về Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử đối với vụ án đó).

Về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng: Cho đến nay chưa có văn bản nào giải thích một cách rành mạch, phân biệt một cách rõ ràng ranh giới giữa vi phạm nghiêm trọng với vi phạm chưa tới mức nghiêm trọng mà hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự đánh giá của Lãnh đạo và Kiểm sát viên Viện kiểm sát (vấn đề này có thể tham khảo vận dụng Thông tư liên tịch 01/2010 ngày 27/8/2010 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung). Tuy nhiên, việc đánh giá này không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của người kháng nghị mà phải căn cứ vào các quy định của BLTTHS và thực tiễn công tác kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, xem xét vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là căn cứ để kháng nghị bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm chỉ là những vi phạm của HĐXX trong xét xử sơ thẩm (bao gồm cả giai đoạn chuẩn bị xét xử), còn các vi phạm của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố không phải căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát cấp huyện.

Những vi phạm thủ tục tố tụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử của Toà án cấp sơ thẩm tới mức nghiêm trọng phải kháng nghị theo thủ tục phúc phẩm thường là những vi phạm sau: Xác định sai người tham gia tố tụng; Triệu tập không đầy đủ những người cần triệu tập đến phiên toà để xét hỏi, những người tham gia tố tụng khác như: nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người giám định… mà sự vắng mặt của họ trở ngại đến việc xác định sự thật của vụ án nhưng HĐXX vẫn xét xử; Khi xét xử Chủ toạ phiên toà không xét hỏi người tham gia tố tụng trong trường hợp lời khai của họ tại Cơ quan điều tra mâu thuẫn với lời khai của người khác..;

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của VKS đối với nhưng vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng còn nhiều bất cập, do BLTTHS quy định chưa rõ ràng, lại không được giải thích hướng dẫn thống nhất; mặt khác; mặt khác do nhận thức của kiểm sát viên không đầy đủ, cho nên thường không thực hiện được, có chăng Viện kiểm sát thường có kiến nghị, yêu cầu Tòa án rút kinh nghiệm.

Căn cứ: “Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ”. Trong thực tiễn ít được làm căn cứ để kháng nghị, vì để nói HĐXX xét xử vụ án như thế nào là phiến diện, không đầy đủ trong quá trình điều tra xét hỏi tại phiện tòa là một công việc không hề đơn giản, kháng nghị là phải có căn cứ và hiện nay trong thực tiễn không phát sinh vấn đề này, bởi nếu HĐXX không điều tra xét hỏi hết kỹ từng vấn đề thì Kiểm sát viên thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm hỏi với mục đích làm sáng tỏ các tình tiết vụ án, cho nên hiện nay thường không áp dụng để kháng nghị.

Thứ tư, thường xuyên nghiên cứu kỹ các Thông báo rút kinh nghiệm không chỉ riêng các loại án hình sự mà cả dân sự, hành chính của Viện kiểm sát cấp trên gửi về; qua đây để học tập nhận diện được các dạng vi phạm, những căn cứ kháng nghị trong các vụ án xảy ra tương tự; làm cơ sở niềm tin cho việc kháng nghị những vụ án vi phạm khi các Kiểm sát viên đang thụ lý./.

Nguyễn Phúc Bình – VKSND huyện Cao Lộc
(Trích nguồn từ VKSND tỉnh Lạng Sơn)

(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang