Góp tiền mua ma túy để dùng là đồng phạm tội tàng trữ

25/08/2017 04:45

(kiemsat.vn)
– Theo tác giả, A và B là đồng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, không phải “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Qua nghiên cứu nội dung bài viết: “Góp tiền mua ma túy về dùng có đồng phạm không?” của tác giả Bùi Kim Trọng đăng trên Kiemsat.vn ngày 15/06/2017, tôi có ý kiến trao đổi như sau:

Có đồng phạm hay không?

Ảnh có tính minh họa (nguồn internet)

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 20 BLHS 1999: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”

– Cả A và B đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS.

– Căn cứ vào tính liên kết về hành vi: A rủ B cùng nhau góp tiền đi mua ma túy, B đồng ý, A chở B đi mua ma túy, A và B cùng dùng xe đi tìm nơi để sử dụng. Nếu xét riêng hành vi của từng người thì không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ bị xử phạt hành chính. Tuy nhiên, cả hai đã có sự giúp sức nhau dẫn đến hậu quả chung là số lượng heroin mà cả hai cùng vận chuyển đi tìm nơi để sử dụng đủ truy cứu trách nhiệm hình sự.

– Căn cứ vào hậu quả: Hậu quả trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do cả A và B gây ra. Hành vi của mỗi người trong vụ án là nguyên nhân gây ra hậu quả chung ấy, mặc dù có người trực tiếp, người gián tiếp gây ra hậu quả. Tổng lượng heroin mà cả hai đã góp tiền mua là 0,123 gram (gam), đã đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, đồng phạm hay không trước hết phải căn cứ vào tổng hàm lượng chất ma túy mà cả hai cùng mua đã đủ yếu tố truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa? Nếu góp tiền mua ma túy mà hàm lượng heroin chỉ dưới 0,1 gram thì không đủ truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ xử lý hành chính, do đó sẽ không thuộc trường hợp đồng phạm. Xác định 0,123 gram heroin đã đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự, A và B cùng nhau thực hiện hành vi, cả 2 đều biết rõ về hành vi của mình và người còn lại mà vẫn thực hiện nên đây là lỗi cố ý. Nên căn cứ vào hàm lượng chất thu được, A và B là đồng phạm.

A và B đồng phạm về tội gì?

Theo hướng dẫn tại tiết 3.1, 3.2, 3.3, 3.4, mục 3, phần II Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 (Sau đây gọi là Thông tư liên tịch 17/2007) có quy định:

3.1. “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này.

3.2. “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào (có thể bằng các phương tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên các tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường bưu điện…; có thể để trong người như cho vào túi áo, túi quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi xách v.v…) mà không nhằm mục đích mua bán, tàng trữ hay sản xuất trái phép chất ma túy khác.

Người giữ hộ, hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy cho người khác, mà biết rõ mục đích mua bán trái phép chất ma túy của người đó, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm.

3.3. “Mua bán trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau đây:

a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác;

b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;

c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;

d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);

đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác;

e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;

g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.3 này đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.

3.4. “Chiếm đoạt chất ma túy” là một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, tham ô, lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt chất ma túy của người khác. Trường hợp người có hành vi chiếm đoạt chất ma túy nhằm mục đích bán lại chất ma túy đó cho người khác, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối với hành vi đã thực hiện theo Điều 194 BLHS và chỉ phải chịu một hình phạt.

Cần phải căn cứ vào lời khai cụ thể của A và B để xác định cả hai mua ma túy nhằm mục đích gì? nếu để bán trái phép cho người khác hoặc dùng để trao đổi thanh toán trái phép thì phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; nếu nhằm mục đích vận chuyển trái phép cho người khác hoặc dịch chuyển bất hợp pháp đến nơi khác mà không nhằm mục đích tàng trữ, mua bán, sản xuất trái phép chất ma túy khác thì phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; Nếu mục đích là cất giấu trong người để sử dụng thì phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bài viết có nêu A và B mua ma túy để sử dụng, và trong quá trình tìm nơi sử dụng, A và B có dịch chuyển bất hợp pháp ma túy. Tuy nhiên, mục đích vận chuyển trái phép ma túy là để tàng trữ, sử dụng. Do đó, A và B không phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” mà phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Như vậy, theo quan điểm của tôi, A và B đồng phạm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Nguyễn Thị Thanh Thủy

VKSQS Khu vực 43

Bài viết liên quan>>>

Góp tiền mua ma túy về dùng có đồng phạm không?

Hành vi của V và O là cố ý gây thương tích

(Kiemsat.vn) - V và H đã có hành vi đánh S và E gây thương tích để đòi lại tiền. Mặc dù, S được V và O băng bó vết thương nhưng hành vi này chỉ thực hiện sau khi hành vi cố ý gây thương tích.
(0) Bình luận

Bài viết chưa có bình luận nào.

lên đầu trang